Xét nghiệm mỡ máu (bilan lipid) làm lúc nào trong ngày là tốt nhất? Làm lúc đói có chính xác hơn không?

Xét nghiệm mỡ máu (bilan lipid) làm lúc nào trong ngày là tốt nhất? Làm lúc đói có chính xác hơn không?

bác sĩ. Lý Bảo Trung

Phần 2: Ứng dụng pycnogenol trong đánh giá nguy cơ tim mạch

Khi nào là thời điểm tốt nhất trong ngày để làm xét nghiệm lipid máu?

Để trả lời câu hỏi này, nhiều sinh viên, bác sĩ y khoa không cần phải suy nghĩ quá nhiều mà trả lời ngay: “Làm vào buổi sáng và cần nhịn ăn >8 tiếng trước khi khám”. Đây là những điều được dạy trên lớp và được viết đi viết lại trong các tài liệu cổ điển. Tuy nhiên, điều này có đúng không?

Cơ sở lý thuyết

Điều đầu tiên cần xác định là trạng thái “đói” theo tiêu chí thử nghiệm (nhịn ăn 8-12 giờ, không đường và béo) thực chất chỉ kéo dài một thời gian ngắn vào buổi sáng trước khi thử nghiệm. Và chúng ta ở trong tình trạng “không đói” gần như 24 giờ một ngày. Hơn nữa, chúng ta biết rằng các lipoprotein gây xơ vữa động mạch không chỉ được sản xuất ở gan (ví dụ: LDL-C, VLDL-C, IDL-C) mà còn từ các hạt đường tiêu hóa đi vào tuần hoàn (ví dụ: tàn dư chylomicron). . Thử nghiệm nhịn ăn sẽ bỏ sót những hạt này. Vì vậy, chúng ta có lý do để tin rằng lượng lipid máu đo được khi không nhịn ăn sẽ phản ánh chính xác hơn tổng lượng lipoprotein gây xơ vữa động mạch.

Hình 4. “Đói” chiếm rất ít thời gian trong ngàyHình 4. “Đói” chiếm rất ít thời gian trong ngày

Có sự khác biệt đáng kể nào trong kết quả xét nghiệm lipid được thực hiện khi nhịn ăn so với những thời điểm khác không?

Một nghiên cứu năm 2008 được công bố trên tạp chí Circulation đã xem xét 33.391 tình nguyện viên để trả lời câu hỏi này. Các đối tượng được chia thành các nhóm theo khoảng thời gian từ bữa ăn cuối cùng đến thời điểm làm bài thi (1 giờ, 2 giờ, 3 giờ,… 8 giờ và nhóm > 8 giờ). Máu của họ được lấy để xét nghiệm trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 7 giờ tối. Kết quả nghiên cứu cho thấy dù xét nghiệm ở thời điểm nào thì sự khác biệt về các chỉ số LDL-C (chênh lệch tối đa -0,2mmol/L), HDL-C (chênh lệch tối đa -0,1mmol/L), nonHDL, ApoB và ApoA1 giữa các nhóm là rất lớn. nhỏ. Đi rồi. Chỉ số dao động rõ rệt nhất là triglycerid (chênh lệch tối đa +0,3mmol/L) [10].

Xem thêm:   Hướng dẫn sử dụng thuốc của Stanford – Polymyxin B & Colistin

Hình 5. Biến động chỉ số cholesterol TP (TC), LDL-C, non-HDL-C, HDL-C, ApoA1, ApoB, triglycerid và albumin theo các thời điểm trong ngày. Ngoài việc tăng chất béo trung tính, nghiên cứu còn ghi nhận mức giảm LDL-C, TC hoặc non-HDL-C ở nhóm không nhịn ăn. Lý do được đưa ra là máu bị loãng sau khi ăn, dẫn đến chỉ số albumin giảm. Khi được điều chỉnh về albumin, các chỉ số này không còn khác biệt giữa lúc nhịn ăn và không nhịn ăn. Điều này vẫn có thể xảy ra ở những bệnh nhân “đói” uống nước hoặc chất lỏng không chứa chất béo vào buổi sáng trước khi xét nghiệm. [4].Hình 5. Biến động chỉ số cholesterol TP (TC), LDL-C, non-HDL-C, HDL-C, ApoA1, ApoB, triglycerid và albumin theo các thời điểm trong ngày. Ngoài việc tăng chất béo trung tính, nghiên cứu còn ghi nhận mức giảm LDL-C, TC hoặc non-HDL-C ở nhóm không nhịn ăn. Lý do được đưa ra là máu bị loãng sau khi ăn, dẫn đến chỉ số albumin giảm. Khi điều chỉnh albumin, các chỉ số này không còn khác biệt giữa lúc nhịn ăn và không nhịn ăn. Điều này vẫn có thể xảy ra ở những bệnh nhân “đói” uống nước hoặc chất lỏng không béo vào buổi sáng trước khi xét nghiệm. [4]Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự. Các chỉ số LDL, HDL và non-HDL ít biến động, trong đó biến động lớn nhất đến từ chất béo trung tính. [2], [11], [12]. Nghiên cứu từ Bệnh viện Đại học Copenhagen thậm chí còn cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị chất béo trung tính giữa nhóm nhịn ăn và không nhịn ăn, ngay cả giữa những đối tượng có hàm lượng chất béo trung tính rất cao và bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. [14]. Các nghiên cứu ở người châu Á dường như chứng minh sự khác biệt lớn hơn về chất béo trung tính và cholesterol. [4], [6]. Tuy nhiên, chất béo trung tính hiện không được sử dụng như một chỉ số về nguy cơ tim mạch. Mọi người chỉ thực sự quan tâm nếu chất béo trung tính trên 4,5 mmol/L (kết quả LDL-C đo gián tiếp qua công thức của Friedewald là sai lệch) và trên 10 mmol/L (tăng nguy cơ viêm tụy cấp). Những khác biệt nhỏ về LDL-C hoặc non-HDL không làm thay đổi quyết định lâm sàng.

Vì vậy, làm điều này khi bạn đói có giá trị hơn không?

Trên thực tế, giá trị của lipid lúc đói hoàn toàn dựa trên bằng chứng từ nhiều nghiên cứu với hơn 300.000 người. [1]. Ví dụ, dữ liệu từ Khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia với 16.161 đối tượng ở Hoa Kỳ từ năm 1988 đến năm 1994 được sử dụng để so sánh tầm quan trọng của LDL-C trong việc đánh giá nguy cơ tim mạch giữa các nhóm đói và không đói. Kết quả cho thấy LDL-C không nhịn ăn có ý nghĩa tiên lượng tương tự như nhịn ăn đối với cả kết cục chính và phụ. [1].

Một nghiên cứu hồi cứu ở Hoa Kỳ sử dụng dữ liệu từ 26.509 đối tượng nữ khỏe mạnh với thời gian theo dõi trung bình là 11,4 năm cho thấy chất béo trung tính khi không nhịn ăn có giá trị tiên lượng cao hơn chất béo trung tính khi đói. [9].

Hình 6. Mối liên quan giữa giá trị triglycerid và nguy cơ biến cố tim mạch trong tương lai theo nhóm theo thời gian xét nghiệm sau bữa ăn.Hình 6. Mối liên quan giữa giá trị triglycerid và nguy cơ biến cố tim mạch trong tương lai theo nhóm theo thời gian xét nghiệm sau bữa ăn.
Hình 7. Mối liên quan giữa giá trị chất béo trung tính và kết quả tim mạch ở nhóm “nhịn ăn” và “không nhịn ăn”.Hình 7. Mối liên quan giữa giá trị chất béo trung tính và kết quả tim mạch ở nhóm “nhịn ăn” và “không nhịn ăn”.

Do đó, bất kỳ hồ sơ lipid nào cũng bằng hoặc thậm chí tốt hơn hồ sơ lipid lúc đói trong việc đánh giá nguy cơ tim mạch.

“Nhưng tôi thích làm điều đó khi tôi thèm sự tiện lợi.”

Ngày nay, các bác sĩ vẫn thích phân tích lipid lúc đói vì hầu hết bệnh nhân đều trải qua xét nghiệm đường huyết lúc đói kết hợp với kiểm tra định kỳ. Điều này có thể hợp lý nếu xét đến điều kiện y tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải bệnh nhân nào cũng cần xét nghiệm đường huyết lúc đói cùng với xét nghiệm lipid. Ở Đan Mạch, chỉ số HbA1C được sử dụng để chẩn đoán và theo dõi bệnh tiểu đường thay vì đo đường huyết lúc đói nên không có chỉ số nào yêu cầu bệnh nhân phải nhịn đói, ngoại trừ việc bệnh nhân cần làm xét nghiệm dung nạp glucose.

Xem thêm:   Sarcoma Ewing (thành ngực)- Ewing sarcoma (chest wall)

Một số nghiên cứu đã ghi nhận tình trạng hạ đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường được xét nghiệm định kỳ do xét nghiệm lúc đói. [3]. Bệnh nhân phải được hướng dẫn cẩn thận để thay đổi liều lượng thuốc trước khi xét nghiệm vào những ngày nhịn ăn, hay đơn giản hơn là bệnh nhân không cần nhịn ăn trong quá trình xét nghiệm định kỳ nếu điều này là không cần thiết. Ngoài ra, chúng ta cần xem xét lại giá trị của đường huyết lúc đói ở mỗi lần khám sức khỏe định kỳ.

Việc loại bỏ nhu cầu xét nghiệm lipid lúc đói cũng mang lại nhiều lợi ích như: giúp phân tán bệnh nhân đến khám trong ngày thay vì suốt buổi sáng, gián tiếp không bắt bệnh nhân quay lại chỉ để lấy kết quả xét nghiệm (khi mọi người đều làm cùng một giờ). ). vào buổi sáng, phòng xét nghiệm không thể cập nhật kết quả), từ đó giảm chi phí cho người bệnh và giúp hạn chế thời gian bảo quản mẫu có thể dẫn đến sai sót mà không cần phải thay đổi lối sống, thói quen dùng thuốc của người bệnh.

Các khuyến nghị hiện nay nói gì về vấn đề này?

Năm 2009, Hiệp hội Hóa sinh lâm sàng Đan Mạch đã khuyến nghị sử dụng pycnogenol thường xuyên mà không cần nhịn ăn. [5].

Sau đó, Hiệp hội Xơ vữa động mạch Châu Âu và Liên đoàn Hóa học Lâm sàng và Y học Thực nghiệm Châu Âu đã đưa ra khuyến nghị tương tự vào năm 2016, đồng thời tuyên bố rằng xét nghiệm lipid lúc đói và lúc không nhịn ăn có thể hỗ trợ lẫn nhau thay vì loại trừ lẫn nhau. [10].

Cùng năm đó, 2016, Hiệp hội Bác sĩ Gia đình Canada và Hiệp hội Tim mạch Canada đã đưa ra khuyến nghị liên quan đến vấn đề này. Điều đặc biệt nhấn mạnh là không cần xét nghiệm lipid máu khi nhịn ăn, nhưng lipid máu có thể dùng khi không nhịn ăn. Nếu bệnh nhân có tiền sử triglycerid > 4,5mmol/L, cũng nên xem xét phân tích lipid lúc đói. [8], [7].

Khuyến nghị phòng ngừa nguy cơ tim mạch của ESC năm 2021 khuyến nghị sử dụng lipid không nhịn ăn để theo dõi thường xuyên và khuyến nghị xem xét cẩn thận các giá trị LDL-C khi kiểm tra các đối tượng có hàm lượng chất béo trung tính cao, bệnh tiểu đường và hội chứng chuyển hóa. [13]. Nguyên nhân là khi triglycerid cao >4,5mmol/L thì chỉ số này sẽ bị ảnh hưởng.

tham khảo

  1. Doran B., Guo Y., Xu J. và cộng sự (2014), “Giá trị tiên lượng của việc nhịn ăn so với mức cholesterol lipoprotein mật độ thấp không nhịn ăn đối với tỷ lệ tử vong lâu dài: từ Khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia III (NHANES-III) )” , Lưu hành, 130(7), trang 134. 546-553.
  2. Sidhu D., Naugler C. (2012), “Thời gian nhịn ăn và mức lipid trong cộng đồng: một nghiên cứu cắt ngang”, Arch Intern Med, 172(22), tr. 1707-1710.
  3. Aldasouqi S., Sheikh A., Klosterman P. và cộng sự (2011), “Hạ đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường dùng thuốc trị đái tháo đường và nhịn ăn để xét nghiệm”, Chăm sóc bệnh tiểu đường, 34(5), trang 123. e52.
  4. Xie Y., Qu Ping, Guo L., và cộng sự (2023), “So sánh giá trị ngưỡng cắt chất béo trung tính khi đói và không nhịn ăn để chẩn đoán chất béo trung tính cao ở bệnh nhân ngoại trú tăng huyết áp ở Trung Quốc”, Tạp chí Y học Lâm sàng, 12(7) .
  5. Nordestgaard BG, Hilsted L., Stender S. (2009), “[Plasma lipids in non- fasting patients and signal values of laboratory results]”, Ugeskr Laeger, 171(13), tr.
  6. Phó Chí Phong, Lưu Minh Lâm (2009), “[Postprandial changes of blood lipid after ordinary Chinese diet and the influencing factors thereof]”, “Tạp chí Y học Trung Quốc”, 89(4), trang 114. 260-262.
  7. Allan G Michael, Lindblad Adrienne J, Comeau Ann và cộng sự (2015), “Hướng dẫn đơn giản hóa lipid: phòng ngừa và quản lý bệnh tim mạch ở chăm sóc ban đầu”, 61(10), tr. 857-867.
  8. Anderson Todd J, Grégoire Jean, Pearson Glen J, và cộng sự (2016), “Hướng dẫn của Hiệp hội Tim mạch Canada năm 2016 về Quản lý Rối loạn lipid máu để Phòng ngừa Bệnh Tim mạch ở Người lớn”, 32(11), tr. 1263-1282.
  9. Bansal Sandeep, Buring Julie E., Rifai Nader, và cộng sự (2007), “So sánh chất béo trung tính khi đói và không nhịn ăn và nguy cơ mắc các biến cố tim mạch ở phụ nữ”, JAMA, 298(3), trang 177. 309-316.
  10. Langsted Anne, Freiberg Jacob J., Nordestgaard Børge G. (2008), “Mức lipid lúc đói và không nhịn ăn”, 118(20), tr. 2047-2056.
  11. Langsted Anne, Nordestgaard Børge G (2011), “lipid, lipoprotein và apolipoprotein khi không nhịn ăn ở những người mắc và không mắc bệnh tiểu đường: 58 434 cá nhân từ Nghiên cứu Dân số Tổng quát Copenhagen”, Hóa học Lâm sàng, 57(3), trang 127. 482-489.
  12. Steiner Michael J., Skinner Asheley Cockrell, Perrin Eliana M. (2011), “Có thể không cần thiết phải nhịn ăn trước khi sàng lọc lipid: một nghiên cứu cắt ngang mang tính đại diện trên toàn quốc”, Pediatrics, 128(3), tr. 463-470.
  13. Visseren Frank LJ, Mach François, Smulders Yvo M và cộng sự (2022), “2021 Hướng dẫn của ESC về phòng ngừa bệnh tim mạch trong thực hành lâm sàng: được phát triển bởi nhóm công tác về phòng ngừa bệnh tim mạch trong thực hành lâm sàng với đại diện của Hiệp hội Châu Âu của Tim mạch và Hiệp hội Tim mạch Châu Âu Đóng góp đặc biệt của 12 hiệp hội y tế Hiệp hội Tim mạch Dự phòng Châu Âu (EAPC)”, 29(1), tr. 5-115.
  14. Nordestgaard Børge G., Langsted Anne, Mora Samia và cộng sự (2016), “Không cần thường xuyên nhịn ăn khi đo hồ sơ lipid: ý nghĩa lâm sàng và xét nghiệm, bao gồm ghi nhãn tại các điểm giới hạn nồng độ lý tưởng – Tuyên bố đồng thuận chung của Ủy ban Châu Âu từ Hiệp hội Xơ vữa động mạch và Liên đoàn Hóa học Lâm sàng và Y học Thực nghiệm Châu Âu,” Tạp chí Tim mạch Châu Âu, 37(25), trang 37. 1944-1958.
Xem thêm:   Đặc điểm của sốc giảm thể tích trên CLVT

Nguồn: ÔNG CHÚ SÌN SÚ
Chuyên mục: Y tế, sức khỏe

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x