Oncolytic virus – thêm lựa chọn điều trị cho bệnh nhân ung thư

Oncolytic virus – thêm lựa chọn điều trị cho bệnh nhân ung thư

Vào tháng 6 năm 2019, tìm kiếm từ khóa “oncolytic virus” trên trang web Clinictrials.gov cho thấy 92 kết quả. Sau khi sàng lọc, khoảng 10 nghiên cứu lâm sàng đang trong tình trạng đình chỉ, hủy bỏ, rút ​​lui và tạm thời chưa rõ tình trạng.

Nó có nghĩa là gì?

Vẫn còn 82 nghiên cứu lâm sàng về ứng dụng virus trong điều trị ung thư đang được tiến hành. Trong đó, 33 nghiên cứu đã được hoàn thành và 5 nghiên cứu đã công bố kết quả. Cần nhắc lại rằng chỉ tìm kiếm với từ khóa “oncolytic virus” và một số cụm từ khác như “Talimogene Laherparepvec”, “T-VEC” hay “Imlygic” đã tìm thấy tổng cộng có tới 6 nghiên cứu đã hoàn thành.

Sử dụng virus để tiêu diệt tế bào ung thư có phải là một ý tưởng điên rồ?

Sử dụng virus biến đổi gen để tấn công tế bào ung thư dường như luôn là giấc mơ, chỉ giới hạn ở những thí nghiệm nhỏ trong phòng thí nghiệm. Trong vài thập kỷ qua, hướng nghiên cứu này phần lớn bị trì trệ và không có dấu hiệu tiến bộ hơn nữa. Nhiều người thậm chí còn chỉ trích việc dành thời gian nghiên cứu bằng cách tiếp cận mơ hồ này, gây lãng phí về tài chính và nhân lực.

Do đó, việc FDA chấp thuận T-VEC (talimogene laherparevec) để điều trị ung thư da vào năm 2015 thực sự là một cột mốc quan trọng đánh dấu và ghi nhận việc tối ưu hóa điều trị ung thư và mở rộng ứng dụng các liệu pháp virus biến đổi gen. T-VEC hiện có hai nghiên cứu giai đoạn III đã hoàn thành về ung thư da và một nghiên cứu về ung thư tuyến tụy vừa hoàn thành giai đoạn I. Cơ chế hoạt động của T-VEC với một số loại virus đột biến. Những thay đổi di truyền khác trên tế bào ung thư sẽ được phân tích sau. Phần tiếp theo của loạt bài viết này.

Xem thêm:   Disulfiram

Virus ung thư

Ở đây, câu hỏi đặt ra là: ý tưởng dùng virus để tấn công tế bào ung thư xuất hiện từ khi nào và tại sao phương pháp này có thể tiếp tục được duy trì và phát triển sau nhiều thăng trầm?

quay lại lịch sử

Hãy cùng điểm lại lịch sử phát triển của virus oncolytic. Một trong những khám phá sớm nhất về khả năng tấn công tế bào ung thư của virus đến từ báo cáo về một trường hợp không điển hình của Tiến sĩ John C. 1904 Bến tàu Georgia, Michigan. Do đó, một bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu tủy xương mãn tính (CML) đã bị giảm số lượng bạch cầu từ 367.070 xuống 7.500 trong vòng hai tuần sau khi trải qua một đợt cúm! Ít hơn gần 50 lần so với trước đây. Gan và lá lách của bệnh nhân cũng trở lại kích thước bình thường. Đây là một trong những bài viết được trích dẫn nhiều nhất về lịch sử phát triển của liệu pháp virus trong điều trị ung thư.

Sau đó vào năm 1939, hai nhà khoa học Wintrobe và Hasenbush tiếp tục ghi nhận 29 trường hợp mắc bệnh bạch cầu không tiến triển sau khi nhiễm virus cấp tính. Một trường hợp khác là một cậu bé 4 tuổi mắc bệnh bạch cầu lympho. Cậu bé chưa được điều trị gì trước khi mắc bệnh thủy đậu. Gan và lá lách của cậu bị sưng to và số lượng tế bào lympho là 200/microlit máu.

Vài ngày sau khi bị nhiễm virus, gan và lá lách trở lại kích thước ban đầu và số lượng tế bào lympho đo được ở mức 4,3 tế bào/microlit máu – trong phạm vi bình thường. Sau khi kiểm tra tủy sống của cậu bé, số lượng hồng cầu và tiểu cầu tăng trở lại và các bác sĩ xác nhận tình trạng bệnh đã ở trạng thái “thuyên giảm”. Thật không may, điều này chỉ kéo dài 30 ngày, sau đó căn bệnh ung thư của cậu bé tiến triển nhanh chóng cho đến khi cậu qua đời.

Xem thêm:   Cuba nghiên cứu thành công Vaccine phòng chống ung thư phổi

Sau đó, ngày càng có nhiều báo cáo về việc ung thư không tiến triển ở những bệnh nhân vô tình bị nhiễm nhiều loại virus khác nhau.

Virus ung thư

Một phát hiện thú vị khác liên quan đến sự cải thiện tình trạng ung thư cổ tử cung ác tính ở phụ nữ Ý được ghi nhận vào năm 1912, 8 năm sau báo cáo của bác sĩ. đê. Khác với những trường hợp vô tình nhiễm virus cấp tính nêu trên, người phụ nữ này bị phơi nhiễm với virus qua việc tiêm phòng bệnh dại. Mặc dù không có ghi chép nào về việc chữa khỏi hoàn toàn bệnh ung thư sau thử thách bằng virus, nhưng nó vẫn được coi là một trong những lựa chọn thay thế cho những bệnh nhân “không còn hy vọng vào các phương pháp điều trị thông thường”. Cho đến lúc đó, vẫn chưa có hệ thống nghiên cứu mang tính hệ thống từ tiền lâm sàng đến lâm sàng sử dụng virus để điều trị ung thư mà tất cả đều bị mắc kẹt trong việc quan sát các trường hợp ung thư không tiến triển sau khi điều trị nhiễm virus.

Các nhà khoa học đã phân tích một số đặc điểm chung về khả năng tiêu diệt tế bào ung thư của virus:

Hiện tượng này hầu như chỉ được quan sát thấy ở những người trẻ tuổi, khi hệ thống miễn dịch còn khỏe mạnh và một số dạng virus có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mà không ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể. Thời gian ngắn không đảm bảo bệnh nhân ung thư sẽ khỏi bệnh.

Xem thêm:   Dị dạng đường thở bẩm sinh – CPAM

Virus ung thư

Trong hơn một thế kỷ, việc sử dụng virus để điều trị ung thư đã có nhiều thăng trầm: bùng nổ vào những năm 1950 và 1960, gần như bị xóa sổ vào những năm 1970 và 1980, sau đó quay trở lại với nhiều nghiên cứu hơn. trong những thập kỷ gần đây.

Thời hoàng kim của liệu pháp này đến cùng với sự phát triển và tiến bộ của các phương pháp nuôi cấy mô và tế bào trong phòng thí nghiệm cũng như ứng dụng các kỹ thuật biến đổi gen đối với virus. Hiểu biết về bộ gen của virus và cơ chế sinh học của bệnh cũng như sự phát triển của virus có thể giúp các nhà khoa học hệ thống hóa khả năng sử dụng virus, đặc biệt là các chủng kỵ khí, trong điều trị ung thư.

Đỉnh cao quan trọng nhất có thể gọi là sự chấp thuận sử dụng adenovirus H101 ở Trung Quốc vào tháng 11 năm 2005. Kelly và các đồng nghiệp (2007) cung cấp một cái nhìn tổng quan thú vị về hơn 150 năm phát triển của bệnh ung thư và virus học. Các tác giả cũng hệ thống hóa 4 nghiên cứu lâm sàng tốt nhất từ ​​năm 1949 đến 1974 về hiệu quả của 4 loại virus trong điều trị ung thư:

Sự giao thoa giữa hai lĩnh vực nghiên cứu virus viêm gan B, virus Egypt 101, adenovirus, virus kết mạc vòm họng (APC) và virus quai bị đã mang đến những phương pháp điều trị mới và niềm hy vọng mới cho bệnh nhân ung thư.

tham khảo:

  1. Liên kết thử nghiệm lâm sàng https://clinicaltrials.gov/ct2/results
  2. G Docket và cộng sự; Tạp chí Y học Hoa Kỳ, 127 (1904), tr. 563-592 https://patents.justia.com/patent/9320787
  3. HR Bierman và cộng sự, Cancer, 6 (1953), tr. 591-605 https://www.cell.com/molecular-therapy-family/oncolytics/fulltext/S2372-7705(16)30023-7
  4. Kelly E và cộng sự; Trị liệu phân tử; Tập 15, Số 4, tháng 4 năm 2007, 651-659 https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1525001616313314

Nguồn: ÔNG CHÚ SÌN SÚ
Chuyên mục: Y tế, sức khỏe

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận