Mũi tên tẩm độc là gì? Nó có phổ biến không?

Mũi tên tẩm độc là gì? Nó có phổ biến không?

Nhà thuốc Lưu Văn Hoàng – Chủ đề: Curare

Nguồn: Nguồn: Nguồn: Khoa Vật tư Y tế, Đại học Y Dược TP.HCM

Mũi tên tẩm độc từ lâu đã được sử dụng để săn thú và sau này là trong chiến tranh. Theo một câu chuyện hư cấu trong thần thoại Hy Lạp, Heracles (còn được gọi là Heracles) đã đánh bại nhân mã Nessus bằng một mũi tên nhúng vào máu của quái vật hydra.

huyền thoại

hình ảnh mũi tên độchình ảnh mũi tên độc

Trong sử thi cùng tên của Homer, người anh hùng Odysseus đã tẩm nọc độc từ cây hellebore vào mũi tên của mình. Thuật ngữ hiện đại cho chất độc, “độc tố”, có nguồn gốc từ “toxon” (có nghĩa là cung) trong tiếng Hy Lạp cổ đại và “taxa” (có nghĩa là mũi tên) trong tiếng Ba Tư cổ đại.

Xem thêm:   Tổn thương thận cấp điều trị trong y học

Hellebore, Châu Âu

Hellebore là tên một loại cây thuộc chi Helleborus, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Elein” có nghĩa là tác hại và thực phẩm “bora”, còn được gọi là cây sắt, cây phụ nữ, cây lê, hoa hồng tuyết, hoa hồng Giáng sinh (nhưng có hoa hồng), … . Loại cây chống điên loạn này lấy tên từ một huyền thoại Hy Lạp khác, trong đó Melampus, một người đàn ông có thể nghe thấy âm thanh của động vật, đã giải cứu Proetus của Argos, con gái của vua Argos đã được chữa khỏi chứng điên loạn. xin chào. Cái tên hoa hồng Giáng sinh xuất phát từ câu chuyện cảm động của một người phụ nữ đã khóc vì không tặng quà cho Chúa vào dịp Giáng sinh và cây mọc lên từ những giọt nước mắt trong tuyết.

Curare, Nam Mỹ

công thức hóa họccông thức hóa học

Khi người Tây Ban Nha đến Nam Mỹ, họ thấy người bản địa sử dụng “wurari” curare để săn thú. Điều thú vị là những người đó vẫn có thể dễ dàng ăn nó mà không bị nhiễm độc sau đó. Wurari xuất phát từ phương ngữ “Mawa cur” và dùng để chỉ một loại cây nho ở Mawa, Strychnosoticifera. Sau này người phương Tây dịch từ này là “curare”. Một số phương ngữ Nam Mỹ khác bao gồm: ampi, woorari, woorara, woorali, wourali, wouralia, ourare, ourari, urare, urari và uirary.

Xem thêm:   ANSM: thông tin về nguy cơ tổn thương gan của Esmya (ulipristal)

Tuy nhiên, “curare” đầu tiên được người châu Âu biết đến không phải đến từ nux vomica (alkaloid chính), mà từ vỏ thân của cây chondrocarpa. Các nhà hóa học thực vật sau đó đã phân lập được curareine khỏi loài này và thuật ngữ “tubo” dùng để chỉ chất độc curare được bảo quản trong ống tre khi mang về châu Âu để nghiên cứu. Tương tự như vậy, có những thuật ngữ như bầu curare hoặc hũ curare, tùy thuộc vào vật chứa mà nó được bảo quản. Tuy nhiên, những bình luận sau đó cho rằng curare thực chất là một hỗn hợp của nhiều chất khác nhau và do điều kiện khoa học và công nghệ vào thời điểm đó nên việc sử dụng nhiều loại thực vật không bị loại trừ. (Chondros: thô/thô, dendron: cây; tomentosum: phủ đầy lông thô; ám chỉ thân cây to, thô ráp)

Người dân bản địa Nam Mỹ sử dụng curare chủ yếu để săn bắn. Con mồi bị bắn bằng mũi tên hoặc phi tiêu súng ngắn nhúng vào chất curare gây ngạt thở do cơ hô hấp không có khả năng co lại (tức là giãn ra). Điều này gợi ý các nhà khoa học sử dụng nó để hỗ trợ gây mê trong thực hành lâm sàng.

Cấu trúc của tubocurarine, một alkaloid có hai nitơ bậc bốn (cả hai nitơ đều bị methyl hóa), được công bố lần đầu tiên vào năm 1948, nhưng đã có một số nhầm lẫn. Đến năm 1970, cấu trúc chính xác của tubocurarine đã được xác nhận là chỉ chứa 1 nitơ bậc bốn và 3 nitơ bổ sung (chỉ 1 nitơ đã methyl hóa). Cấu trúc này giải thích tại sao cư dân Nam Mỹ không bị ngộ độc khi ăn thịt thú rừng vì tubocurarine không đi qua niêm mạc tiêu hóa. Về mặt y tế, tubocurarine chỉ được sử dụng dưới dạng muối clorua tiêm. Vào giữa thế kỷ 20, tubocurarine được sử dụng cùng với thuốc gây mê để thư giãn cơ xương trong quá trình phẫu thuật hoặc thở máy, do đó hạn chế nhu cầu gây mê sâu. Hiện nay, nó hiếm khi được sử dụng như một thuốc hỗ trợ gây mê lâm sàng vì có sẵn các lựa chọn an toàn hơn.

Xem thêm:   Các thuốc đau bụng kinh được dùng để giảm đau cho chị em khi đèn đỏ

tham khảo:

Vasiliki Vasileiou, Georgios K. Markantes, Anastasia K. Armeni, Konstantina Barouti, Angeliki Georgopoulou, Neoklis A. Georgopoulos (2017), “Điều trị con gái của Melampus và Proetus”, hormone, 16(2), 212-216.

King H (1948), “64. Curare alkaloid. Phần VII. Thành phần của dextrocytocurine chloride”, J Chem Soc, 265.

Nguồn: ÔNG CHÚ SÌN SÚ
Chuyên mục: Y tế, sức khỏe

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x