Bệnh Whitmore là gì? Vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây bệnh Whitmore nguy hiểm như thế nào?

Bệnh Whitmore là gì? Vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây bệnh Whitmore nguy hiểm như thế nào?

Trong những ngày gần đây, chúng ta tràn ngập tin tức về loại vi khuẩn “ăn thịt” đáng sợ và căn bệnh mà nó gây ra, bệnh Whittemore. Chỉ tính riêng tháng 8, Trung tâm Bệnh nhiệt đới-Bệnh viện Bãi Mai ghi nhận 12 trường hợp nhiễm vi khuẩn này. Vậy bệnh Whittemore là gì? Vi khuẩn gây bệnh Whittemore Burkholderia mallei đáng sợ đến mức nào và tại sao lại gọi là vi khuẩn “ăn thịt người”?

Bệnh Whittemore là gì?

Bệnh Whittemore (còn gọi là melioidosis) là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây ra. Thời gian gần đây, bệnh tái phát ở Việt Nam với nhiều ca mắc mới. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh bao gồm sốt, đổi màu da, áp xe nhiều, viêm phổi, viêm não, viêm xương khớp, suy đa tạng và có thể dẫn đến tử vong. Nếu không xét nghiệm vi sinh, bệnh Whittemore có thể bị chẩn đoán nhầm với các tình trạng khác, chẳng hạn như nhiễm trùng huyết do tụ cầu và bệnh lao hệ thống. Bệnh này dễ xảy ra ở những bệnh nhân mắc các bệnh tiềm ẩn như tiểu đường, cao huyết áp và sau khi vết thương hở tiếp xúc với đất.

bệnh WhittemoreBệnh Whitmore gây ra nạn ăn thịt đồng loại và các triệu chứng khác

Burkholderia mallei là gì?

Burkholderia pseudomallei là một loại vi khuẩn gram âm, lưỡng cực, hiếu khí, di động, hình que, thường sống trong đất ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới và là mầm bệnh chính gây bệnh Whitmore ở người và động vật.

B.pseudomalei có chiều dài 2 – 5 mcm, đường kính 0,4 – 0,8 mcm và có thể tự di chuyển bằng roi. Vi khuẩn có thể sản sinh ra nội độc tố và ngoại độc tố khi nuôi cấy trong môi trường nhân tạo, đặc biệt là những môi trường có chứa betaine và arginine; vai trò của độc tố trong bệnh Whittemore vẫn chưa được xác định đầy đủ.

Xem thêm:   Tư tưởng anti Vaccine mang lại thảm họa cho loài người

Burkholderia malleiBurkholderia mallei

Chẩn đoán vi khuẩn: Bacillus pseudomallei phát triển dễ dàng trên nhiều loại môi trường (thạch máu, thạch MacConkey, EMB…), cấy thường cho kết quả sau 24 – 48 giờ, khuẩn lạc nhăn nheo, màu kim loại, có mùi đất. Theo vết Gram, mẫu vật có màu Gram âm. PCR có thể được sử dụng để chẩn đoán nhưng vẫn chưa được áp dụng trên lâm sàng.

Tính kháng: B. pseudomallei nhạy cảm với nhiều chất khử trùng thông dụng: benzalkonium chloride, kali permanganat, iod và cồn 70o. Nó có thể bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao 74oC trong 10 phút hoặc tia cực tím. Khử trùng bằng clo là không đáng tin cậy.

Khả năng gây bệnh: Bacillus pseudomallei là mầm bệnh cơ hội xâm nhập vào cơ thể qua tiếp xúc với bụi bẩn, thường là qua vết thương hở, có khả năng trùng hợp Actin giữa các tế bào và tiết ra các độc tố nguy hiểm. Ngay cả khi được điều trị, bệnh Whittemore vẫn có tỷ lệ tử vong từ 20 đến 50%. Tỷ lệ tử vong cao có thể do phát hiện bệnh muộn, dẫn đến bệnh nặng và có các biến chứng như sốc nhiễm trùng, suy tim đa cơ quan.

Burkholderia malleiBurkholderia mallei

vắc xin

Hiện chưa có vắc xin đặc hiệu để phòng bệnh này và nếu có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm B. mallei thì nên đến ngay cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị.

Các triệu chứng của bệnh Whittemore

Các triệu chứng của bệnh Whittemore thường khác nhau tùy thuộc vào loại nhiễm trùng, bao gồm nhiễm trùng phổi, nhiễm trùng máu, nhiễm trùng cục bộ và nhiễm trùng lan rộng.

– Loét thường gặp ở gan, phổi, lá lách và tuyến tiền liệt nhưng hiếm gặp ở xương, khớp, hạch và não.

Xem thêm:   Mũi tên tẩm độc là gì? Nó có phổ biến không?

– Nhiễm trùng phổi: Triệu chứng phổ biến nhất của bệnh Whittemore là nhiễm trùng phổi, có thể xảy ra đầu tiên hoặc do nhiễm trùng huyết, từ viêm phế quản nhẹ đến viêm phổi nặng hơn và có thể nhiễm trùng sốc. Các triệu chứng của nhiễm trùng phổi có thể bao gồm:

  • Ho: ho khan hoặc ho có đờm
  • sốt cao
  • Đau ngực khi thở
  • Đau đầu và đau cơ
  • giảm cân

Ngay cả khi được chụp X-quang ngực, nhiễm trùng phổi do B. pseudomallei có thể bị nhầm lẫn với bệnh lao.

bệnh WhittemoreLoét mũi do bệnh Whittemore

– Nhiễm trùng huyết: Nếu không được điều trị kịp thời, tình trạng có thể tiến triển thành nhiễm trùng huyết, kèm theo các biến chứng như sốc nhiễm trùng và suy đa cơ quan. Các triệu chứng thường bao gồm:

  • Sốt kèm theo ớn lạnh và đổ mồ hôi
  • Đau đầu; đau khớp và đau cơ
  • đau họng
  • bị lạc
  • Hụt hơi
  • bệnh tiêu chảy
  • Đau bụng trên
  • vết loét có mủ trên da hoặc bên trong

Bệnh nhân có các bệnh lý tiềm ẩn có nguy cơ nhiễm trùng huyết cao hơn, chẳng hạn như: tiểu đường; bệnh gan mãn tính, bệnh thận, bệnh thalassemia, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, ung thư hoặc tình trạng suy giảm miễn dịch. Bệnh nhân trên 40 tuổi cũng có nguy cơ bị nhiễm trùng huyết cao hơn người trẻ tuổi.

– Nhiễm trùng cục bộ: Ảnh hưởng đến da và các cơ quan dưới da. Nhiễm trùng cục bộ có thể lan vào máu.

  • Đau hoặc sưng tấy ở những vùng kín (cục bộ), chẳng hạn như tai và tuyến mang tai, thường liên quan đến bệnh quai bị nhất và có thể dễ bị chẩn đoán sai.
  • sốt
  • Vết loét hoặc áp xe trên hoặc ngay dưới da – Nó có thể bắt đầu bằng một vết sưng nổi lên, màu xám hoặc trắng, sau đó trở nên mềm và viêm, trông giống như một vết thương.
Xem thêm:   Lời cảnh tỉnh cho người sử dụng thực phẩm chức năng

Nhiễm trùng lan tỏa: Trong loại Whittemore này, vết loét phát triển ở nhiều cơ quan, có thể liên quan hoặc không liên quan đến sốc nhiễm trùng. Các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Sốt, nhức đầu, buồn nôn
  • Giảm cân, giảm cân
  • đau bụng hoặc đau ngực
  • đau cơ hoặc khớp

chẩn đoán

Bệnh Whittemore có thể liên quan đến nhiều cơ quan và dễ bị chẩn đoán nhầm với nhiều bệnh lý khác nên tỷ lệ tử vong do bệnh thường cao do chẩn đoán muộn.

Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán Whitmore là nuôi cấy và phân lập Bacillus pseudomallei từ máu, đờm, mủ, nước tiểu, dịch khớp, dịch phúc mạc, dịch màng ngoài tim và các mẫu bệnh phẩm khác… Môi trường nuôi cấy có thể là thạch máu, thạch MacConkey, EMB.. Tuy nhiên, kết quả cấy tinh trùng âm tính không làm giảm nguy cơ mắc bệnh Whittemore.

đối xử

– Tùy theo loại bệnh Whittemore mà có cần điều trị bằng kháng sinh hay không

– Giai đoạn điều trị ban đầu đối với bệnh Whittemore là dùng kháng sinh tiêm tĩnh mạch (IV) tối thiểu từ 10 – 14 ngày, có thể kéo dài đến 8 tuần. Bạn có thể chọn một trong hai tùy chọn:

  • Ceftazidime 2 g (Fortaz, Tazicef) (trẻ em 50 mg/kg, tối đa 2 g) IV mỗi 6 giờ trong ít nhất 14 ngày
  • Meropenem 1 g (Merrem, Meronem) (25 mg/kg ở trẻ em, tối đa 1 g) IV mỗi 8 giờ trong ít nhất 14 ngày.

– Giai đoạn 2 kéo dài từ 3 đến 6 tháng và gồm các đợt kháng sinh đường uống:

  • Cotrimoxazole (sulfamethoxazole + trimethoprim) (Bactrim, Biseptol) cứ sau 12 giờ
  • Uống doxycycline (Alodox, Cyclindox) cứ sau 12 giờ.

Tái phát hầu như không bao giờ xảy ra và chỉ xảy ra nếu không tuân thủ điều trị bằng kháng sinh.

Tổng hợp bản dịch: Quang Sang

Nguồn tham khảo:

https://www.healthline.com/health/melioidosis

https://en.wikipedia.org/wiki/Burkholderia_pseudomalei

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/10093229

https://jcm.asm.org/content/54/12/2866

Sao chép nguồn: https://www.vnras.com/drug/

Nguồn: ÔNG CHÚ SÌN SÚ
Chuyên mục: Y tế, sức khỏe

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận